3/18/2009

Hiệu Ứng Bullwhip trong chuỗi cung ứng -bạn đã biết gì? (Part I)

Là người quan tâm hoặc nghiên cứu cũng như thực tiễn trong chuỗi cung ứng, hẳn bạn đã từng nghe đến cái gọi là hiệu ứng BullWhip (hiệu ứng cái roi da). Đây là một hiện tượng quan trọng và có ý nghĩa đột phá trong các quyết định về quản trị chuỗi cung ứng. Hiệu ứng Bullwhip được phát triển gốc gác sâu xa bởi tiến sỹ Ray Forrester (MIT) vào năm 1961 trong nghiên cứu có tên Industrial Dynamics và do đó người ta còn gọi hiệu ứng Bullwhip là hiệu ứng Forrester (TS Forrester sau này rất nổi tiếng với mô hình System Dynamics được ứng dụng rộng rãi trong phân tích và hoạch định kinh doanh, chiến lược kinh doanh, các nghiên cứu của ông là nền tảng cho các khái niệm phát triển sau nay như Strategy Dynamics, Business Dynamics,..).

The Bullwhip effect

Tuy nhiên Bullwhip Effect chỉ được phát triển một cách toàn diện cũng như gắn với chuỗi cung ứng bởi GS Hau Lee trong bài báo “The Bullwhip Effect in Supply Chain” trên tạp chí MIT Sloan Management Review năm 1997. Từ đó người ta mới nhìn nhận thực sự vai trò và tác động của hiệu ứng này. Cùng gắn với Bullwhip Effect trường MIT đã phát triển một trò chơi giả lập nhằm giúp người chơi hiểu rõ hơn vai trò và tác động của Bullwhip có tên là Beer Game. Và một số công ty khác thì phát triển thêm trò chơi có tên Near Beer Game. Beer Game là trò chơi có ảnh hưởng rộng lớn trong các doanh nghiệp, mà bản thân các CEO hàng đầu thế giới thi chơi trò chơi này đều thốt lên “Thật quá trễ khi tham gia trò chơi này. Nếu được chơi sớm hơn thì có lẽ tôi đã cải thiện được nhiều điều”. (Bạn có thể chơi trò này trực tuyến bằng cách vào địa chỉ sau:

http://en.wikipedia.org/wiki/Beer_Distribution_Game , tôi dám chắc bạn cũng sẽ ngộ ra nhiều điều. Bullwhip effect cũng được trình bày trong cuốn sách rất nổi tiếng của Peter Senge có tên “The Fifth Discipline” (Nguyên tắc thứ năm). Cuốn này đã được nhà xuất bản trẻ dịch ra tiếng Việt cách đây vài năm.

Nói đến bullwhip chỉ giải thích thôi thì có lẽ chưa đủ để bạn đọc nắm hết vấn đề. Chính vì vậy tôi sẽ trích dịch bài viết “The Bullwhip Effect in Supply Chains” của GS Hau Lee và một sộ công sự. Đây là bài viết kinh điển và quan trọng là rất dễ đọc (xin lưu ý là để chứng minh hiệu ứng bullwhip thì GS Hau Lee đã phải ứng dụng mô hình toán rất phức tạp) mà tôi hi vọng bạn đọc phần nào hiểu bullwhip một cách hệ thống hơn từ đó áp dụng vào công việc kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Chúc thành công. Mong nhân được ý kiến đóng góp của các bạn. Cheer

Hiệu Ứng Bullwhip trong Chuỗi Cung Ứng

Tác giả : Hau L. Lee, V.Padmanbhan, Seungjin Whang

Tạp chí MIT Sloan Management Review, Mùa xuân năm 1997.

Thông tin bị méo mó (thông tin nhu cầu) chuyển tải từ một thành phần trong chuỗi cung ứng đến một thành phần khác có thể dẫn tới việc lãng phí to lớn: mức độ dự trữ lớn quá mức, dịch vụ khách hàng tồi, mất doanh số, kế hoạch sản xuất không chính xác, vận tải không hiệu quả. Vậy điều gì đã làm các đơn hàng nhảy múa loạn xạ như vậy? Có cách nào các doanh nghiệp giảm thiệu chuyện ấy?

Cách đây không lâu, một nhà điều hành logistics ở công ty P&G đã tiến hành nghiên cứu cách thức đặt hàng đối với một trong những sản phẩm bán chạy của công ty, Tã Lót Pampers. Trong khi doanh số bán hàng tại các cửa hàng bán lẻ có biến động nhưng mức độ này không quá lớn. Nhưng khi kiểm tra biến động đơn hàng tại nhà phân phối, ông phát hiện ra mức độ biến động đã lớn hơn. Thậm chí khi kiểm tra việc đặt hàng nguyên liệu của P&G với nhà cung cấp, như là 3M, thì bây giờ mức độ biến động còn lớn hơn nhiều.

Thoạt nhìn thì sự khác biệt về biến động đơn hàng có vẻ như không hợp lý. Bởi người tiêu dùng, trong trường hợp này là những đứa nhóc, tiêu thụ tã lót ở mức khá ổn định, nhưng mức độ biến động đơn hàng lại ngày càng lớn khi tiến sâu vào chuỗi cung ứng. P&G gọi hiện tượng này là “hiệu ứng Bullwhip”. (trong một số ngành thì người ta gọi là hiệu ứng “whiplash” hay “whipsaw”.)


Khi các nhà điều hành Hewlett-Packard (HP) kiểm tra doanh số của sản phẩm máy in ở một đại lý chủ chốt, họ phát hiện ra có một số biến động. Nhưng khi họ kiểm tra đơn hàng từ đại lý này thì họ còn thấy mức độ biến động còn lớn hơn.

Điều gì đã xảy ra? Nhất là khi chuỗi cung ứng đang bị lây nhiễm bệnh bởi hiệu ứng bullwhip điều đã làm thông tin nhu cầu ngày càng bị méo mó khi đi sâu vào bên trong chuỗi cung ứng. Trong quá khứ do không thể thấy hết được doanh số bán của mình trong các kênh phân phối nên HP chỉ có thể dựa vào đơn hàng của đại lý để đưa ra dự báo sản phẩm, lên kế hoạch nguồn lực, kiểm soát tồn kho, và lên kế hoạch sản xuất. Sự chênh lệch quá lớn trong dự báo nhu cầu đang trở thành bài toán đau đầu cho ban quản trị HP. Triêu chứng thông thường của sự biến động ấy là tồn kho quá mức, dự báo kém, năng lực dư thùa hoặc thiếu hụt, dịch vụ khách hàng tệ do sản phẩm không có sẵn hoặc do tồn kho dự trữ quá lâu, kế hoạch sản xuất không ổn định và chi phí tốn kém từ những hành động sửa chữa (như dùng vận tải chi phí cao, làm việc ngoài giờ..).

Nhiều năm trước đây, Tổ chức ECR (Efficient Consumer Respone)-tôi sẽ giới thiệu về ECR trong một bài khác sắp tới-đã cố gắng tái xác lập cách chuỗi cung ứng hàng tạp hóa (grocery supply chain) vận hành. Một trong những động cơ chính của hành động này là do tồn kho quá mức trong chuỗi cung ứng bán lẻ. Nhiều nghiên cứu trong ngành cho thấy tổng chuỗi cung ứng từ lúc sản phẩm rời nhà máy đến khi nó được sẵn sàng trên kệ có lượng tồn kho tương đương 100 ngày cung cấp (100 days of inventory supply). Thông tin méo mó đã dẫn dắt các thực thể trong chuỗi cung ứng-kho của nhà máy, kho thành phẩm của nhà sản xuất, kho trung tâm của nhà phân phối, kho vùng của nhà phân phối, kho của nhà bán lẻ- phải dự trữ hàng bởi vì mức độ biến động và không chắc chắn của nhu cầu.

Sẽ không ngạc nhiên khi ECR ước tính có thể cắt giảm khoảng 30 tỷ USD các khoản không hiệu quả trong chuỗi cung ứng bán lẻ.

Trong chuỗi cung ứng của một sản phẩm điển hình, ngay cả trong trường hợp doanh số không biến động nhiều thì nó cũng được chuyển hóa thành những biến động trong đơn hàng của nhà bán lẻ đến nhà bán sỉ. Thậm chí còn cao hơn khi đến nhà sản xuất và cung cấp (xem hình).

Các nguyên nhân của hiệu ứng Bullwhip

Có lẽ một ví dụ sống động minh họa cho hiệu ứng bullwhip chính là trò chơi Beer (Beer-game) rất nổi tiếng. Trong trò chơi này người chơi sẽ đóng vai người tiêu dùng, người bán lẻ, nhà bán sỉ, và nhà cung cấp một nhãn hiệu bia phổ thông. Người chơi không thể trao đổi với nhau và phải tự đưa ra quyết định của mình dựa trên đơn hàng của người có liên quan trực tiếp đang đóng vài trò là khách hàng của mình. Và khi càng chơi, thì người ta càng phát hiện ra rằng càng đi ngược sâu vào chuỗi cung ứng thì mức độ biến động đơn hàng càng lớn. Đây là ví dụ vô cùng sinh động của Bullwhip effect. Mức độ biến động này được cho rằng là bởi quyết định không hợp lý của người chơi. Theo thí nghiệm của Sterman (xin xem cuốn nguyên tắc thứ 5) cho thấy chính hành vi con người, hiểu sai về tồn kho và thông tin nhu cầu có thể gây ra hiệu ứng bullwhip.

Ngược lại chúng tôi lại chỉ ra rằng bullwhip effect là hậu quả của hành vi khá hợp lý của con người trong bối cảnh hạ tầng của chuỗi cung ứng. Điều này nghĩa là các công ty muốn kiểm soát hiệu ứng bullwhip thì nên tập trung vào kiểm soát và điều chỉnh hạ tầng chuỗi cung ứng và các quy trình liên quan hơn là điều chỉnh hành vi của người ra quyết định.

Chúng tôi đã xác định được bốn nguyên nhân chính gây ra hiệu ứng bullwhip:

1. Việc cập nhật dự báo nhu cầu

2. Dung lượng đơn hàng theo quy mô (order batching)

3. Sự biến động về giá cả (price fluctuation)

4. Trò chơi tạo sự hạn chế và thiếu hụt (rationing and shortage gaming)

Mỗi nguyên nhân trên cộng với bối cảnh hạ tầng chuỗi cung ứng và các quyết định hợp lý của các nhà quản lý đã gây ra hiệu ứng bullwhip. Hiểu rõ các nguyên nhân này sẽ giúp các nhà quản lý thiết kế và phát triển chiến lược để đối phó với nó.

Cập nhật dự báo nhu cầu (demand forecast updating)

Mỗi công ty trong chuỗi cung ứng thường thực hiện việc dự báo sản phẩm nhằm giúp việc lên kế hoạch sản xuất, hoạch định nguồn lực, kiểm soát tồn kho và hoạch định nguyên vật liệu. Dự báo thường dựa trên dữ liệu lịch sử đơn hàng của khách hàng trực tiếp. Kết quả của trò Beer Game chính là sản phẩm của nhiều yếu tố mang tính hành vi, như là nhận thức và niềm tin của người chơi. Một nhân tố quan trọng là mỗi suy nghĩ của người chơi khi dự báo nhu cầu là dựa trên những gì họ quan sát thấy. Mỗi khi có đơn hàng từ đối tác downstream[1] (như nhà bán lẻ, bán sỉ, sản xuất..) đặt một đơn hàng thì các nhà quản lý upstream (như nhà bán sỉ, sản xuất, cung cấp..) sẽ coi thông tin đó như là tín hiệu về tương lại của nhu cầu. Dựa trên tín hiệu ấy nhà quản lý upstream sẽ điều chính dự báo nhu cầu cua mình và tiếp theo họ dùng thông tin ấy để đặt hàng cho nhà cung cấp (thành phẩm, nguyên vật liệu ) của mình. Chúng tôi cho rằng chính việc xử lý thông tin/tín hiệu nhu cầu chính là nhân tố chủ chốt gây ra hiệu ứng bullwhip.

Đơn đặt hàng theo gói/lô (Order Batching)

Trong chuỗi cung ứng, mỗi công ty đặt hàng với đối tác của mình đều sử dụng một vài mô hình kiểm soát tồn kho. Khi nhu cầu đến, tồn kho sẽ giảm nhưng công ty có thể không đặt hàng với nhà cung cấp ngay lập tức. Mà họ thường gộp hoặc gom các nhu cầu lại rồi mới đặt hàng. Có hai hình thức đặt hàng theo gói: đặt hàng định kỳ và đặt hàng theo hình thức đẩy (push order).

Thay vì đặt hàng liên tục thường xuyên thì các công ty lại đặt hàng theo tuần/hoặc hai tuần thậm chí hàng tháng. Có nhiều lý do phổ biến để giải thích cho mô hình dự trữ dựa trên đặt hàng theo chu kỳ. Thường thì nhà cung cấp không thể xử lý các đơn hàng liên tục thường xuyên vì yếu tố thời gian và chi phí xử lý đơn hàng kiểu ấy quá lớn. Nhiều nhà sản xuất đặt hàng với nhà cung cấp khi họ chạy các hệ thống MRP (Material Requirement Planning). Hệ thống MRP thường chạy hàng tháng và ra kết quả đặt hàng hàng tháng. Một công ty có những sản phẩm ít bán chạy sẽ thường đặt hàng theo tháng nhiều hơn.

Hãy xem một công ty đặt hàng mỗi tháng từ nhà cung cấp của mình. Nha cung cấp này sẽ gặp tình trạng đơn hàng thất thường. Vì đơn hàng có thể rất cao vào một thời điểm trong tháng trong khi cả tháng lại không có đơn hàng. Và điều này cũng góp phần gây ra hiệu ứng Bullwhip.

Một trở ngại lớn và phổ biến khác đối với một công ty muốn đặt hàng thường xuyên chính là tính kinh tế của vận tải. Rõ ràng có sự khác biệt giữa một FTL (Full truck load) và LTL (lesst Truck Load).

Trong mô hình đặt hàng đẩy (push order), một công ty có thể trải qua tình trạng tăng đột biến thường xuyên về nhu cầu. Công ty này có những đơn hàng “đẩy” từ khách hàng của mình định kỳ bởi vì người bán hàng thường được đánh giá định kỳ theo quý hoặc năm, đây này làm phát sinh tình trạng đơn hàng tăng đột biến cuối tháng hoặc cuối năm. Nhân viên bán hàng thường hoàn thành “hạn ngạch bán hàng” bằng cách mượn các đơn hàng của kỳ kế tiếp.

Khi một công ty đối diện với các đơn hàng định kỳ từ khách hàng thì cũng là lúc hiệu ứng bullwhip xuất hiện. Nếu tất các các chu kỳ đơn hàng được phân bổ đều trong xuất một tuần thì hiệu ứng bullwhip sẽ được giảm thiểu.

Biến động giá cả

Theo ước tính 80 phần trăm các giao dịch giữa nhà sản xuất và nhà phân phối trong ngành tạp hóa (bán lẻ) được thực hiện dưới hình thức “forward buy” (mua kỳ hạn) theo đó các sản phẩm được mua trước khi có nhu cầu, thường do mức giá hấp dẫn của nhà cung cấp chào bán. Các hợp đồng forward buy chiếm từ 75 tỷ đến 100 tỷ USD tồn kho của ngành bán lẻ.

Forward buy thường do sự biến động giá cả trên thị trường. Nhà sản xuất và phân phối định kỳ có chương trình khuyến mãi đặc biệt như triết khấu giá, triết khấu theo số lượng, coupon, thối tiền (rebates), v.v. Tất cả chương trình khuyến mại này dẫn tới sự biến động giá cả. Hơn nữa, nhà sản xuất thường chào mời những hợp đồng thương mại hấp dẫn (như chiết khấu đặc biệt, ưu đãi giá, ưu đãi thanh toán)) cho nhà phân phối và bán sỉ, một hình thức giá tiếp của chiết khấu giá. Ví dụ, Kotler đã báo cáo rằng các hợp đồng thường mại đặc biệt và khuyến mãi người tiêu dùng chiếm tới 47% và 28% tổng ngân sách khuyến mãi của mình. Và thế là khách hàng mua hàng với số lượng lớn không hề phản ánh nhu cầu thực sự tại thời điểm đó; họ mua hàng rồi chỉ để dự trữ cho tương lai.

Và khách hàng chỉ mua hàng sau đó khi mà họ giải quyết hết lượng tồn kho của mình mà thôi. Kết quả rõ ràng là mô hình mua hàng của họ không phản ánh thực mô hình tiêu thu5va2 mức biến động trong mua hàng theo số lượng lớn sẽ lớn hơn nhiều so với biến động tiêu thụ-và hiệu ứng bullwhip lại xuất hiện.

Cứ mỗi khi mô hình định giá cao-thấp (high-low)[2]xuất hiện thì forward buy là một quyết định hợp lý. Nếu chi phí của dự trữ hàng tồn kho thấp hơn mức độ khác biệt về giá thì mua hàng forward buy quả là quyết định khá hợp lý.

Mặc dù một số công ty cho rằng mình có quyền được hưởng từ mô hình định giá cao-thấp, nhưng phần lớn lại đang gánh chịu hậu quả từ nó. Ví dụ, mộ nhãn hiệu soup hàng đầu có doanh số bán hàng mang tính thời vụ, và thường cao nhất vào mùa động. Tuy nhiên lượng hàng vận chuyển từ nhà sản xuất đến nhà phân phối phản ánh đơn hàng của nhà phân phối thì lại thay đổi rất mạnh. Khi đối diện với tình trạng đơn hàng lớn, công ty thường phải vận hành sản xuất liên tục thậm chí là ngoài giờ nhưng khi đơn hàng giảm thì lại phải giảm sản xuất. Thay vào đó, công ty phải trữ hàng để phòng trừ trường hợp nhu cầu tăng cao. Khi đơn hàng tăng cũng là lúc công ty phải giả chi phí cao cho việc vận chuyển . Hỏng hóc cũng tăng do dự trữ hàng và xử lý hàng với số lượng lớn hơn bình thường. Mỉa mai thay tình trạng ấy lại do sự biến động về giá do chính nhà sản xuất và phân phối gây ra. Nên không có gì là buồn cười nếu người ta gọi thực tế này là “the dumbest marketing ploy ever” (mánh khóe marketing dớ dẩn nhất).

Trò chơi hạn chế và thiếu hụt (rationing and Shortage gaming)

Khi nhu cầu vượt quá khả năng cung cấp, nghĩa là nhà sản xuất đang hạn chế sản phẩm của mình đến khách hàng. Theo nghĩa đó, nhà sản xuất sẽ phân bổ số lượng tỷ lệ theo số lượng đã đặt hàng. Ví dụ, nếu tổng cung chỉ bằng 50% tổng cầu, thì khách hàng chỉ nhận được 50% số lượng mà họ đã đặt hàng. Và nếu biết nhà sản xuất sẽ hạn chế khi sản phẩm bị thiếu hụt, thì khách hàng sẽ phóng đại nhu cầu thự sự của mình lên khi họ đặt hàng. Sau đó khi mà nhu cầu đã nguội, đợn hàng sẽ bất thình lình bị hủy bỏ . Điều này có vẻ thể hiện sự phản ứng thái quá sẽ xuất hiện khi có tình trạng thiếu hụt và chế độ phân bổ xuất hiện. Tác động của “trò chơi” này là đơn hàng của khách hàng phản ánh ko chính xác nhu cầu thực. Hiện tượng này xuất hiện khá phổ biến. Vào những năm 1980, nhiều lần ngành công nghiệp máy tính rơi vào tình trạng thiếu hụt DRAm. Đơn hàng tăng vọt, nhưng ko phải do tiêu thụ tăng mà do dự đoán. Khách hàng đặt hàng gấp đôi với nhiều nhà cung cấp khác nhau và chính thức mua từ nhà cung cấp đầu tiên có thể giao hàng sau đó hủy bỏ các đơn hàng trùng lắp còn lại.

Làm thế nào đối phó với hiệu ứng Bullwhip

Hiểu được bản chất nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip có thể giúp các nhà quản lý tìm ra phương cách giảm thiểu nó. Thực tế nhiều công ty đã bắt đầu ứng dụng các chương trình đổi mới giúp giải quyết vấn đề này.

Kurt Binh (lược dịch )-còn tiếp phần II


[1] Trong chuỗi cung ứng người ta thường sử dụng hai thuật ngữ khá phổ biến là downstream (xuôi dòng) và upstream (ngược dòng). Dòng chảy ở đây thể hiện dòng chảy hàng hóa/nguyên vật liệu từ nhà cung cấp đến tay người tiêu dùng (hay còn gọi là chain-chuỗi, suppy chain-chuỗi cung ứng).

[2] Mô hình định giá phổ biến thường là high-low pricing và every day low pricing. EDLP là mô hình mà Walmart đang theo đuổi.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét